Bình luận tội môi giới hối lộ

Bình luận tội môi giới hối lộ (Điều 365 Bộ luật hình sự 2015)

1. Chủ thể của tội phạm

Cũng như đối với tội đưa hối lộ, chủ thể của tội phạm này không phải là chủ thể đặc biệt, người phạm tội không nhất thiết phải là người có chức vụ, quyền hạn và cũng không lợi dụng chức vụ, quyền hạn để phạm tội. Việc nhà làm luật quy định tội phạm này trong chương “các tội phạm về chức vụ” là vì khách thể của tội phạm chứ không phải vì chủ thể của tội phạm. Tuy nhiên, người phạm tội làm môi giới hối lộ cũng có thể là người có chức vụ, quyền hạn và lợi dụng chức vụ, quyền hạn của mình để làm môi giới hối lộ, nhưng không phải là bắt buộc đối với tội phạm này.
Dù là người có chức vụ, quyền hạn hay người không có chức vụ, quyền hạn thì họ chỉ trở thành chủ thể của tội phạm này khi đủ tuổi (16 tuổi trở lên) và có năng lực trách nhiệm hình sự.

2. Khách thể của tội phạm

Khách thể của tội làm môi giới hối lộ là hoạt động đúng đắn của cơ quan, tổ chức; làm cho cơ quan, tổ chức bị suy yếu, mất uy tín, mất lòng tin của nhân dân vào chế độ; làm cho cán bộ, công chức ở cơ quan, tổ chức bị thoái hoá biến chất. Làm môi giới hối lộ chính là hành vi giúp sức, tiếp tay không chỉ cho một tội phạm mà cho nhiều tội phạm mà thể là tội nhận hối lộ và tội đưa hối lộ.

3. Mặt khách quan của tội phạm

Hành vi khách quan: Người phạm tội chỉ có hành vi khách quan duy nhất là làm môi giới giữa người đưa và nhận hối lộ. Nhưng biểu hiện của hành vi làm môi giới hối lộ rất đa dạng.

Tội moi giới hối lộ
Tội môi giới hối lộ
Người có hành vi môi giới hối lộ có thể gặp người nhận hối lộ để gợi ý thăm dò và đưa ra những yêu cầu của người đưa hối lộ hoặc nhận lời với người nhận hối lộ là sẽ tìm gặp người đưa hối lộ để đưa ra những điều kiện của người nhận hối lộ. Việc làm này có thể chỉ diễn ra một lần hoặc có thể diễn ra nhiều lần.
Người có hành vi môi giới hối lộ có thể chỉ thu xếp, bố trí thời gian, địa điểm để người đưa hối lộ và người nhận hối lộ tiếp xúc, giao thiệp với nhau về việc đưa và nhận hối lộ.
Cũng có trường hợp người môi giới hối lộ có mặt trong cuộc tiếp xúc giữa người đưa hối lộ và người nhận hối lộ để chứng kiến hoặc tham gia vào việc đưa và nhận hối lộ.
Khi xác định hành vi làm môi giới hối lộ cần phân biệt với hành vi lợi dụng chức vụ, quyền hạn gây ảnh hưởng với người khác để trục lợi; hành vi lợi dụng ảnh hưởng đối với người có chức vụ, quyền hạn để trục lợi hoặc hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản.
Nếu hành vi tuy có tính chất làm môi giới hối lộ nhưng người có hành vi đã lợi dụng chức vụ, quyền hạn gây ảnh hưởng với người khác để trục lợi thì người phạm tội bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội “lợi dụng chức vụ, quyền hạn gây ảnh hưởng với người khác để trục lợi” theo Điều 385 Bộ luật Hình sự.
Nếu hành vi tuy có tính chất làm môi giới hối lộ nhưng người có hành vi đã lợi dụng ảnh hưởng đối với người có chức vụ, quyền hạn để trục lợi thì người phạm tội bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội “lợi dụng ảnh hưởng đối với người có chức vụ, quyền hạn để trục lợi” theo Điều 366 Bộ luật Hình sự.
Nếu hành vi tuy có tính chất làm môi giới hối lộ nhưng người có hành vi đã dùng thủ đoạn gian dối để chiếm đoạt tài sản của người đưa hối lộ thì người phạm tội bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội “lửa đảo chiếm đoạt tài sản” theo Điều 174 Bộ luật Hình sự. Tuy nhiên, người bị chiếm đoạt tài sản là người đưa hối lộ nên họ có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội đưa hối lộ và của hối lộ sẽ bị tịch thu sung quỹ Nhà nước.
Hậu quả: Hậu quả của tội môi giới hối lộ không phải dấu hiệu bắt buộc của cấu thành tội phạm.

4. Mặt chủ quan của tội phạm

Tội làm môi giới hối lộ người thực hiện hành vi phạm tội là do cố ý, tức là nhận thức rõ hành vi của mình là làm môi giới hối lộ, thấy trước được hậu quả của hành vi đó và mong muốn việc đưa và nhận hối lộ được thực hiện, hoặc tuy không mong muốn nhưng có ý thức bỏ mặc cho việc đưa và nhận hối lộ xảy ra.
Người làm môi giới hối lộ có nhiều động cơ khác nhau, có thể vì tình cảm, có thể vì vụ lợi hoặc động cơ cá nhân khác; động cơ phạm tội không phải là yếu tố bắt buộc của cấu thành tội phạm này. Tuy nhiên, các cơ quan tiến hành tố tụng cần xác định động cơ để làm căn cứ khi quyết định hình phạt đối với người phạm tội.

3. Về hình phạt

Hình phạt cao nhất đối với tội lợi dụng ảnh hưởng đối với người có chức vụ, quyền hạn để trục lợi là 10 năm. Theo đó, các khung hình phạt được phân hóa như sau:

Khung cơ bản:

Cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm. Có thể thấy, so với Bộ luật hình sự năm 1999, Bộ luật hình sự năm 2015 đã sửa đổi bổ sung thêm hình phạt cải tạo không giam giữ đồng thời giảm mức án phạt tù từ một năm đến năm năm (theo Bộ luật hình sự năm 1999) xuống còn từ 06 tháng đến 03 năm.

Khung tăng nặng:

Nếu trong Bộ luật hình sự năm 1999, khung tăng nặng chỉ có một khung duy nhất là hình phạt tù từ ba năm đến mười năm thì Bộ luật hình sự năm 2015 đã tách thành hai khung tăng nặng để bảo đảm sự hợp lý, khoa học, thống nhất trong quá trình áp dụng pháp luật và phù hợp với tính phức tạp của tội phạm. Theo đó:

+ Khung tăng nặng thứ nhất: Phạt tù từ 02 năm đến 07 năm;

+ Khung tăng nặng thứ hai: Phạt tù từ 05 năm đến 10 năm;

Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng (Bộ luật hình sự năm 1999 quy định : “ Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ một lần đến năm lần số tiền hoặc giá trị tài sản đã trục lợi”).


 Dịch vụ luật sư

  & Zalo 091 321 8707

  luatbinhtam@gmail.com

Liên kết hữu ích: Cơ sở dữ liệu quốc gia về văn bản pháp luật

Call Now Button